Chuyên ngành: Kinh tế học (Thống kê kinh tế) Mã số: 62310101
Nghiên cứu sinh:
Vũ Thị Thu Thủy
Người hướng dẫn:
1. PGS.TS. Trần Thị Kim Thu 2. PGS.TS. Lưu Bích Ngọc
Những đóng góp mới về mặt lý luận, học thuật
(1) Đóng góp cho cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa sử dụng kỹ thuật thu thập thông tin với chất lượng số liệu điều tra về chủ đề nhạy cảm HIV/AIDS ở Việt Nam. Các yêu cầu và điều kiện áp dụng các kỹ thuật thu thập thông tin điều tra chủ đề nhạy cảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và trình độ phát triển xã hội hiện tại ở Việt Nam.
(2) Đóng góp vào cơ sở thực tiễn trong việc thiết kế sử dụng các kỹ thuật thu thập thông tin điều tra chủ đề nhạy cảm lồng ghép trong một cuộc điều tra quy mô quốc gia tại Việt Nam, bao gồm:
- Thiết kế và thử nghiệm sử dụng các kỹ thuật thu thập thông tin điều tra chủ đề nhạy cảm trong một cuộc điều tra “thực” về “Điều tra Kiến thức và hành vi về HIV/AIDS” tại Việt Nam. Áp dụng phương pháp điều tra theo mẫu cố và đánh giá tác động của việc sử dụng các kỹ thuật thu thập tin tới chất lượng số liệu điều tra về chủ đề nhạy cảm.
- Ba kỹ thuật thu thập thông tin điều tra chủ đề nhạy cảm về HIV/AIDS đã được sử dụng để thu thập thông tin và đánh giá tác động đến chất lượng số liệu là: phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn tự điền và kỹ thuật trả lời ngẫu nhiên (RRT). Trong đó, RRT lần đầu tiên thực hiện thử nghiệm trong các điều kiện và hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.
- Luận án là nghiên cứu đầu tiên đánh giá tác động của việc sử dụng các kỹ thuật thu thập thông tin khác nhau đối với chất lượng số liệu điều tra nhạy cảm về HIV/AIDS, đặc biệt đã lượng hóa mức độ tác động của việc sử dụng các kỹ thuật thu thập thông tin tới chất lượng số liệu. Kết quả nghiên cứu có thể suy rộng áp dụng cho các điều tra chủ đề nhạy cảm khác tại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất
(1) Nghiên cứu cho thấy, đối tượng điều tra “hợp tác” tốt hơn khi sử dụng kỹ thuật thu thập thông tin phỏng vấn tự điền so với phỏng vấn trực tiếp với tỷ lệ không trả lời thấp hơn (0,486% so với 1,146%). Sử dụng kỹ thuật phỏng vấn tự điền cho báo cáo về hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn 3,3% so với kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp khi các điều kiện khác không đổi. Tỷ lệ này là 3,7% khi phỏng vấn tự điền đối với những người sống ở khu vực thành thị và 4,6% đối với nam giới.
(2) Môi trường diễn ra cuộc phỏng vấn thu thập thông tin nhạy cảm về chủ đề HIV/AIDS cũng có ảnh hưởng đến chất lượng số liệu điều tra thu thập được: cuộc phỏng vấn diễn ra tại cộng đồng ngoài hộ gia đình có báo cáo về hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn so với thực hiện phỏng vấn tại hộ gia đình.
(3) Thử nghiệm RRT mặc dù không cho kết quả như mong đợi nhưng đã giúp đúc kết một số kinh nghiệm quan trọng trong thực hiện kỹ thuật mới này với điều kiện hiện nay của Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu gợi ý việc sử dụng kỹ thuật thu thập thông tin phỏng vấn tự điềntrong điều tra thu thập các thông tin về chủ đề nhạy cảm nên được cân nhắc sử dụng trong các cuộc điều tra về chủ đề nhạy cảm tại Việt Nam thay vì phỏng vấn trực tiếp nhằm khuyến khích người trả lời “hợp tác” tốt hơn và trả lời “thật” hơn các câu hỏi điều tra. Đồng thời, cần có những nghiên cứu tiếp theo về sử dụng phỏng vấn tự điền sử dụng thiết bị điện tử như CAPI, CASI, ACASI.... nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng số liệu điều tra. Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu RRT trên phạm vi hẹp với cách thức tổ chức đội điều tra do Tổng cục Thống kê trực tiếp tổ chức. Tuyển chọn điều tra viên cần được thực hiện kỹ thông qua các hình thức tham gia tập huấn và sát hạch, lựa chọn điều tra viên có cạnh tranh. Những kinh nghiệm và bài học từ luận án về thực hiện RRT cần được xem xét, cân nhắc cẩn thận trong các hoạt động nghiên cứu từ khi thiết kế điều tra đến tập huấn cho điều tra viên và thu thập số liệu.
Nội dung của luận án xem tại đây.