Nghiên cứu sinh Bùi Thị Lành bảo vệ luận án tiến sĩ

Vào 9h00 ngày 08/10/2021 tại P501 Nhà A2, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức lễ bảo vệ luận án tiến sĩ cho NCS Bùi Thị Lành chuyên ngành Quản trị kinh doanh quốc tế, với đề tài: Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam.
Thứ ba, ngày 20/07/2021

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Đề tài luận án: Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế    Mã số: 9340101_QTE
Nghiên cứu sinh: Bùi Thị Lành        Mã NCS: NCS35.45QTE
Người hướng dẫn: PGS.TS. Tạ Văn Lợi
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 

Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận 

- Luận án đã làm rõ được nội hàm của khả năng hấp thụ (KNHT) vốn FDI và phân biệt rõ sự khác biệt giữa khả năng hấp thụ vốn và thu hút vốn FDI. Theo đó, khả năng hấp thụ vốn FDI được hiểu là khả năng của nước sở tại trong việc tiếp nhận nguồn vốn FDI, đồng hoá và triển khai được nguồn vốn này vào trong nền kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho nước sở tại.
- Các thành phần của KNHT gồm KNHT dạng tiềm ẩn và KNHT  dạng thực hiện. KNHT dạng tiềm ẩn chỉ khả năng quốc gia nước sở tại có thể xác nhận và tiếp nhận nguồn vốn FDI cần thiết cho nền kinh tế; KNHT dạng thực hiện là khả năng chuyển đổi nguồn vốn FDI đã được tiếp nhận trở thành nguồn vốn thực sự đi vào nền kinh tế và mang lại lợi ích cho chính bản thân nước sở tại.
- Luận án đã xác định chỉ tiêu đánh giá và yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ vốn FDI. Những nhân tố chính được xác định gồm có: nhân tố về chất lượng thể chế, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó là các yếu tố mức mở cửa thị trường, quy mô thị trường. Trên cơ sở đó, luận án đã kiểm định ảnh hưởng của các nhân tố tới khả năng hấp thụ vốn FDI với chỉ số FDI thực hiện làm thang đo cho KNHT vốn FDI.

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án 

Dựa trên kết quả kiểm định từ mô hình, nhóm các nhân tố đã được chứng minh ảnh hưởng tới KNHT vốn FDI của Việt Nam gồm có nhân tố thể chế, mức độ hội nhập kinh tế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng. Bởi định hướng của Việt Nam là hướng tới các luồng vốn FDI có chất lượng, hàm lượng công nghệ cao. Do vậy cần phải đa dạng hoá chính sách thu hút đầu tư, cải thiện chất lượng công tác thẩm định dự án, cải thiện hệ thống chính sách nhằm tiếp cận được vốn FDI từ các quốc gia có công nghệ nguồn, có cơ hội chọn lựa các dự án FDI có chất lượng và khả thi, không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Nguồn nhân lực có ảnh hưởng cùng chiều tới KNHT vốn FDI. Trước lợi thế về cơ cấu dân số vàng đang mất dần, và định hướng tiếp nhận FDI hàm lượng công nghệ cao, Việt Nam cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua quá trình cải cách hệ thống giáo dục gắn với thực tiễn, phát triển mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng như nới rộng các quy định sử dụng lao động nước ngoài. Ảnh hưởng của kết cấu hạ tầng hiển nhiên được thể hiện trên kết quả kiểm định. Ngoài ra, mức độ hội nhập kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới KNHT, điều này đã phần nào giải thích được hoạt động của các DN FDI hướng tới thị trường Việt Nam nhằm mục đích tận dụng lợi thế kinh tế theo địa điểm. 
Mặt khác, kết quả kiểm định không chứng minh được ảnh hưởng của yếu tố quy mô thị trường và trình độ công nghệ. Điều này phần nào phù hợp với luận giải của tác giả trong quá trình phân tích từng nhân tố ảnh hưởng. Về yếu tố quy mô thị trường, tác giả đã luận giải các doanh nghiệp FDI hướng vào thị trường Việt Nam với mục tiêu tận dụng lợi thế và phát triển chuỗi cung ứng, không hướng mục tiêu về thị trường.  Về yếu tố trình độ công nghệ, trong luận giải của tác giả đã chỉ ra mức độ liên kết giữa DN FDI và DN nội địa còn rất yếu, nguồn cung ứng của các DN FDI chủ yếu từ nước ngoài hoặc từ các DN FDI khác.

---------------------------------------

NEW CONTRIBUTIONS OF THE THESIS

Thesis topic: Factor affecting foreign direct investment absorptive capacity of Vietnam
Major: International Business Management   Code: 9340101_QTE
Postgraduate: Bui Thi Lanh         PhD student Code: NCS35.45QTE
Instructor: Associate Professor Ph.D Ta Van Loi
Academic Institutions: National Economic University

New academic and theoretical contributions

- The thesis has clarified the content of the FDI absorptive capacity (ABC) and clearly distinguishes the difference between ABC and attract FDI. Accordingly, the FDI ABC is understood as the ability of the host country to receive FDI, assimilate and deploy this capital into the economy to bring benefits to the host country.
- Components of ABC include potential absorptive capacity (PAC) and realized absorptive capacity (RAC): PAC indicates the ability of the host country to confirm and receive the necessary FDI capital for the economy; RAC is the ability to convert received FDI capital into real capital entering the economy and bringing benefits to the host country itself.
- The thesis has identified evaluation criteria and factors affecting the FDI ABC. The main factors identified include: institution, technology level, human resources, infrastructure. Besides, there are factors such as market opening level and market size. On that basis, the thesis has tested the influence of factors on the FDI ABC with the implemented FDI index as a scale for FDI ABC.

New findings and proposals drawn from the research and survey results of the thesis

Based on the test results from the model, the group of factors that have been proven to affect Vietnam's FDI ABC include institution, level of economic integration, human resources and infrastructure. Because Vietnam's orientation is towards FDI flows with high quality and high technology content, it is necessary to diversify policies to attract investment, improve the quality of project appraisal, and improve the policy system in order to access FDI from countries with source technology, have the opportunity to choose select high-qualified and feasible FDI projects that do not adversely affect the environment. Human resources have a positive influence on FDI ABC. Facing the fading advantage of the golden population structure and the orientation to receive high-tech FDI, Vietnam needs to improve the quality of human resources through the process of reforming the education system in association with reality, develop linkages between training institutions and enterprises as well as expand regulations on the use of foreign workers. The influence of infrastructure is evident on the test results. In addition, the degree of economic integration has a significant influence on the absorption capacity, which partly explains the activities of FDI enterprises towards the Vietnamese market for the purpose of taking advantage of location-based economic advantages. 
On the other hand, the test results do not prove the influence of market size and technology level. This is somewhat consistent with the author's commentary in the process of analyzing each influencing factor. Regarding the factor of market size, the author has explained that FDI enterprises are targeting the Vietnamese market with the goal of taking advantage and developing the supply chain, not the market. Regarding the technological level factor, in the author's commentary, the link between FDI enterprises and domestic enterprises is still very weak, the supply of FDI enterprises is mainly from foreign countries or from other FDI enterprises.