Nghiên cứu sinh Nguyễn Hữu Trúc bảo vệ luận án tiến sĩ

Vào 16h00 ngày 20/06/2022 tại P501 Nhà A2, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức lễ bảo vệ luận án tiến sĩ cho NCS Nguyễn Hữu Trúc chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng, với đề tài: Mối quan hệ giữa quản trị công ty và mức độ chấp nhận rủi ro tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ năm, ngày 05/05/2022

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Đề tài luận án: Mối quan hệ giữa quản trị công ty và mức độ chấp nhận rủi ro tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng    Mã số: 9340201_TC
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Hữu Trúc        Mã NCS: NCS38.073TC
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Huệ, PGS.TS. Đặng Tùng Lâm
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 

Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận 

Luận án sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ thống hai bước với mẫu dữ liệu gồm 577 công ty niêm yết (CTNY) phi tài chính trên sàn HOSE và HNX trong giai đoạn 2007-2017. Kết quả nghiên cứu đã có những đóng góp mới như sau: Thứ nhất, tại Việt Nam nghiên cứu đo lường mức độ chấp nhận rủi ro (CNRR) bằng thước đo rủi ro tổng thể còn rất hạn chế, thước đo rủi ro đặc thù chưa được các nghiên cứu đề cập; các nhân tố quản trị công ty (QTCT) như thù lao của ban giám đốc và sự kiêm nhiệm của thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) trong ban giám đốc vẫn chưa được nghiên cứu tại Việt Nam. Do vậy, luận án này nghiên cứu tác động của QTCT đến mức độ CNRR của các CTNY Việt Nam. Trong đó, mức độ CNRR được đo lường qua 2 thước đo là rủi ro đặc thù và rủi ro tổng thể. Các nhân tố QTCT được đo lường bởi các nhân tố nổi bật được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây bao gồm quy mô HĐQT, sự độc lập của HĐQT, thành viên nữ trong HĐQT, sở hữu nhà nước, sở hữu nước ngoài và các nhân tố QTCT chưa được nghiên cứu như thù lao của ban giám đốc và sự kiêm nhiệm của thành viên HĐQT trong ban giám đốc. Thứ hai, tổng quan nghiên cứu cho thấy sở hữu nhà nước có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến mức độ chấp nhận rủi ro nhưng chưa có nghiên cứu nào chỉ ra mối quan hệ phi tuyến tính giữa hai nhân tố này. Do đó, luận án này đã làm rõ mối quan hệ phi tuyến tính về tác động của sở hữu nhà nước đến mức độ CNRR của các CTNY Việt Nam. Thứ ba, Thông tư 121/2012/TT-BTC về QTCT yêu cầu các CTNY phải tăng số lượng thành viên độc lập trong HĐQT do đó cũng có tác động đến mức độ CNRR của các công ty này. Tác động này chưa được các tác giả trong nước nghiên cứu. Do vậy, luận án làm rõ tác động của việc gia tăng số lượng thành viên độc lập trong HĐQT theo quy định của Thông tư 121 đến mức độ CNRR tại các CTNY Việt Nam.

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án 

Luận án đã có những phát hiện mới như sau: (i) quy mô HĐQT, sự độc lập của HĐQT, tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT và thù lao của ban giám đốc có tác động nghịch chiều, ngược lại tỷ lệ kiêm nhiệm các chức vụ trong ban giám đốc của thành viên HĐQT có tác động thuận chiều đến mức độ CNRR. Tỷ lệ sở hữu nhà nước có tác động nghịch chiều đến mức độ CNRR tuy nhiên nhóm công ty có sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ kiểm soát lại có tác động thuận chiều đến mức độ CNRR. Tác động của sở hữu nước ngoài đến mức độ CNRR cũng là thuận chiều; (ii) đưa ra bằng chứng thực nghiệm về tác động phi tuyến tính của sở hữu nhà nước đến mức độ CNRR của các CTNY Việt Nam, cụ thể tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn liên quan đến mức độ CNRR thấp hơn, tuy nhiên khi tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn một ngưỡng giới hạn nào đó lại liên quan đến mức độ CNRR của công ty cao hơn; (iii) sự gia tăng số lượng thành viên độc lập trong HĐQT do tác động của Thông tư 121/TT-BTC làm giảm mức độ CNRR của các CTNY Việt Nam. 
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận án đã đề xuất một số khuyến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán (Chính phủ, Ủy ban chứng khoán nhà nước), các CTNY và nhà đầu tư.

-----------------------------------
NEW CONTRIBUTIONS OF THE DESERTATION

Thesis topic: The relationship between corporate governance and risk taking in Vietnamese listed firms
Major: Banking – Finance    Code: 9340201_TC
Student: Nguyễn Hữu Trúc    No.: NCS38.073TC
Tutor: Pro. PhD. Nguyễn Thị Minh Huệ, Pro. PhD. Đặng Tùng Lâm
Campus: National Economics University 

New contributions of the thesis to the literature

This thesis employed the two-step systematic GMM estimation method and a data sample of 577 non-financial listed firms on HOSE and HNX in the period of 2007-2017. The research results have the following contributions: Firstly, risk taking measured by total risk is limited while idiosyncratic risk has not been mentioned in Vietnamese studies; corporate governance factors such as managerial compensation and the duality of board members on the board of directors (BoD) have not been studied in Vietnam. Therefore, this thesis explores the impact of corporate governance on risk taking in Vietnamese listed firms. Specifically, corporate risk taking is measured by two measures namely total risk and idiosyncratic risk. The prominent corporate governance factors which used in previous studies include board size, board independence, the rate of female members on board, state ownership, foreign ownership. The new corporate governance factors have not been studied are managerial compensation and the duality of board members on BoD. Second, the literature review shows that state ownership have a positive or negative impact on corporate risk taking. However, there is no study to explore a non-linear relationship between state ownership and corporate risk taking. This thesis clarified the non-linear relationship between them. Third, the Circular 121/2012/TT-BTC requires Vietnamese listed companies to increase the number of independent members on the board. However, there is no domestic study to clarify this issues. This thesis explores the impact of an increasing of independent members on board which is motivated by Circular 121 on risk taking in Vietnamese listed firms.

New findings and proposals are drawn from the research results of the thesis

The thesis have made the following new findings: (i) board size, board independence, proportion of female members in board and managerial compensation have a negative impact, the duality of board members on BoD contrastly have a positive impact on corporate risk taking. State ownership ratio has a negative effect while the group of state ownership control companies has a positive effect on risk taking in Vietnamese listed firms. The impact of foreign ownership is also positive; (ii) The research results provide empirical evidence about the non-linear relationship between state ownership and Vietnamese listed companies risk taking. Specifically, higher state ownership is associated with lower risk taking but the state ownership propotion is higher than a certain threshold, it is associated with a higher degree of risk taking; (iii) the increasing of the number of independent members on board due to the impact of Circular 121/TT-BTC reduces the risk taking of Vietnamese listed firms.
Basing on research results, the thesis provides a number of recommendations for state agencies on the stock market (Government, State Securities Commission), listed companies and investors.