Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Hữu Ái bảo vệ luận án tiến sĩ

Vào 16h00 ngày 21/12/2020 tại P501 Nhà A2, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức lễ bảo vệ luận án tiến sĩ cho NCS Nguyễn Thị Hữu Ái, chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng (Kinh tế bảo hiểm), với đề tài "Nghiên cứu các yếu tố tác động tới ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam".
Thứ sáu, ngày 30/10/2020

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Đề tài luận án: Nghiên cứu các yếu tố tác động tới ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Chuyên ngành:    Kinh tế bảo hiểm                            Mã số: 9340201_BH
Nghiên cứu sinh:   Nguyễn Thị Hữu Ái                     Mã NCS: NCS34.080BH
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Chính, TS. Nguyễn Văn Thành
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 

1. Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

Thứ nhất, nghiên cứu đã kiểm định và chỉ rõ tác động ngược chiều của sáu yếu tố, bao gồm cam kết với doanh nghiệp, hài lòng với công việc, công bằng trong tổ chức, giá trị đạo đức doanh nghiệp, định hướng nghề nghiệp, và đào tạo tới ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ trong bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam. Trên thực tế, các yếu tố cam kết với doanh nghiệp, hài lòng với công việc, và công bằng trong tổ chức được các nghiên cứu trước khẳng định có tác động ngược chiều đến ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhưng chưa có nghiên cứu kiểm định chuyên sâu trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Thêm vào đó, luận án bổ sung thêm ba yếu tố mới, bao gồm giá trị đạo đức doanh nghiệp, định hướng nghề nghiệp, và đào tạo được kiểm định có tác động ngược chiều đến ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam. 
Thứ hai, hệ thống đo lường yếu tố định hướng nghề nghiệp và đào tạo được tác giả phát triển mới phù hợp với mục tiêu nghiên cứu tác động của các yếu tố đến ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam.

2. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án

Thứ nhất, tác động ngược chiều của sáu yếu tố tới ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, là cơ sở để các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần có các giải pháp kiểm soát và hoàn thiện các yếu tố này nhằm giảm ý định rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. 
Thứ hai, mức độ đánh giá của đại lý về sáu biến độc lập chưa thực sự cao. Ý định rời bỏ doanh nghiệp được đánh giá ở mức trung bình. Nhóm đại lý toàn thời gian có mức độ đánh giá đối với các biến độc lập cao hơn khá rõ so với nhóm đại lý bán thời gian và ngược lại đối với kết quả đánh giá về ý định rời bỏ doanh nghiệp, độ lệch chuẩn thường thấp hơn độ lệch chuẩn của nhóm đại lý bán thời gian. Kết hợp kết quả phân tích mức độ đánh giá của đại lý đối với các biến, kết quả thực trạng tỷ lệ rời bỏ doanh nghiệp cao cho thấy các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, các cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cần có các giải pháp nhằm tăng tỷ trọng đại lý toàn thời gian và cải thiện chất lượng đánh giá các biến độc lập của đại lý bảo hiểm nhân thọ Việt Nam... nhằm giảm ý định rời bỏ doanh nghiệp, từ đó hạ thấp tỷ lệ rời bỏ doanh nghiệp của đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam.

------------------------------------

NEW CONTRIBUTIONS OF THE THESIS

Thesis topic: Researching the factors affecting the intention to leave the organizations of life insurance agencies in Vietnam
Major: Insurance Economic                                              Code: 9340201_BH
Post-graduate: Nguyen Thi Huu Ai                                  Post-graduate student: NCS34.080BH
Advisors: PhD. Nguyen Thi Chinh, PhD. Nguyen Van Thanh
Training institution: National Economics University

1. New academic and theoretical contributions

First, the study tested and identified the opposite effects of six factors, including organizational commitment, job satisfaction, organizational justice, corporate ethical values, and career orientation, and training to life insurance agencies’ intention to leave the organization in the research landscape in Vietnam. In fact, factors of organizational commitment, job satisfaction, and organizational justice have been confirmed by previous studies to have a negative impact on the insurance agencies’ intention to leave the business. There are no in-depth accreditation studies in the field of life insurance. In addition, the thesis adds 3 new elements, including corporate ethical values, career orientation, and training that have a negative impact on the life insurance agencies’ intention in Vietnam.
Second, the new system of measuring career orientation factors and training is developed by the author in accordance with the research objective of the impact of factors on the intention to leave the business of life insurance agencies in Vietnam.

2. New findings and proposals drawn from the results of the thesis research and survey

First, the opposite effect of 6 factors on the intention to leave the organization of life insurance agents in Vietnam is the basis for life insurers to have solutions to control and perfect all the factors to reduce the intention of leaving the business of life insurance agencies in Vietnam.
Second, the level of agencies’ assessment of 6 independent variables is not really high. The intention to leave the organization is rated medium. The full-time agency groups had a significantly higher rating of independent variables than the part-time agency group and vice versa for the assessment of the intention to leave the organization; the standard deviation was often lower than the standard deviation of the part-time agent group. Combining the results of analyzing the agencies’ assessment of variables and results of the high rate of leaving enterprises shows that life insurance enterprises, State management agencies, and insurance associations Vietnam needs to have solutions to increase the proportion of full-time agencies’ and improve the quality of assessment of independent variables by Vietnam life insurance agencies to reduce the intention to leave the organization, thereby lowering the life insurance agencies’ turnover rate in Vietnam.