Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Mai Chi bảo vệ luận án tiến sĩ

Vào 16h00 ngày 06/07/2020 tại P501 Nhà A2, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân tổ chức lễ bảo vệ luận án tiến sĩ cho NCS Nguyễn Thi Mai Chi chuyên ngành Kế toán, kiểm toán và phân tích, với đề tài: Phân tích rủi ro tài chính tại các doanh nghiệp viễn thông niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ hai, ngày 17/02/2020

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

Đề tài luận án: Phân tích rủi ro tài chính tại các doanh nghiệp viễn thông niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chuyên ngành: Kế toán, kiểm toán và phân tích    Mã số: 9340301
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Mai Chi       Mã NCS: NCS35.34B2KT
Người hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Văn Công
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 

Những đóng góp mới về mặt lý luận 

Luận án đã chỉ ra rủi ro tài chính (RRTC) tại các doanh nghiệp viễn thông niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (DNVT) có mối quan hệ với các nhân tố: lãi suất, hiệu năng các khoản phải thu và độ tuổi của công ty. Kết quả của các nghiên cứu trước đã không tìm thấy được mối quan hệ hiệu năng hoạt động cũng như lãi suất tới RRTC. Cùng với đó, mối quan hệ của biến độ tuổi của công ty tới RRTC cũng chưa được xem xét đến trong các nghiên cứu trước.

Những phát hiện rút ra được từ kết quả nghiên cứu của luận án 

(1)    Nhân tố lãi suất có quan hệ ngược chiều với RRTC tại các DNVT. Nguyên nhân là do khi lãi suất cho vay tăng các DNVT giảm việc sử dụng các nguồn vốn vay từ bên ngoài (bao gồm cả ngắn hạn lẫn dài hạn) và tăng cường sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư cho hoạt động kinh doanh. Điều này đã gia tăng mức độ độc lập tài chính và giảm RRTC cho các DNVT. Nghiên cứu Defang & Murong (2005), Vũ Thị Hậu (2013) lại cho thấy không có đủ căn cứ để kết luận lãi suất có tác động đến RRTC. 
(2)    Nhân tố hiệu năng các khoản phải thu có mối quan hệ ngược chiều với RRTC tại các DNVT. Các nghiên cứu của Altman (1968), Ohlson (1980), Defang & Murong (2005), Vũ Thị Hậu (2013), Vũ Thị Hậu (2017), Gang & Dan (2012), Fu & cộng sự (2012), Bhunia & Mukhuti (2012) chưa khẳng định được mối quan hệ này.
(3)    Nhân tố độ tuổi của công ty cũng có mối quan hệ ngược chiều với RRTC tại các DNVT. Đây là nhân tố chưa được xem xét đến ở các nghiên cứu trước đây.

Những đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu của luận án 

(1)    Đối với các DNVT để hạn chế, ngăn ngừa RRTC cần áp dụng các biện pháp: Hoàn thiện quy trình phân tích RRTC từ khâu nhận diện đến đo lường, kiểm soát, xử lý RRTC. Nâng cao khả năng thanh toán bằng cách tăng khả năng thanh khoản của tài sản ngắn hạn. Tăng khả năng sinh lợi bằng biện pháp kiểm soát chi phí, từ giá thành sản xuất, dịch vụ đến các khoản chi phí ngoài sản xuất. Nâng cao hiệu năng các khoản phải thu từ việc quản lý tốt các khoản phải thu đến tăng số lần thu hồi tiền hàng. Xây dựng cấu trúc tài chính phù hợp cả về cơ cấu nguồn vốn lẫn cơ cấu tài sản. Luận án cũng đề xuất biện pháp xử lý một số loại RRTC đặc trưng của các DNVT như: rủi ro về khả năng thanh toán, rủi ro về khả năng sinh lợi, rủi ro về tín dụng, rủi ro về cơ cấu nguồn vốn, rủi ro về lãi suất.
(2)    Đối với Nhà nước và cơ quan chủ quản: Xây dựng chính sách phát triển viễn thông cho vùng sâu, vùng xa, hỗ trợ vốn, lãi suất cho các DNVT khi tham gia các dự án. Nhanh chóng thành lập Hiệp hội Viễn thông Việt Nam.
(3)    Đối với Sở Giao dịch chứng khoán: Thống nhất tiêu chí phân ngành giữa hai Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

-------------------------------

THESIS’S NEW CONTRIBUTIONS

Title: Analysis of financial risk in telecommunications companies listed on Vietnam's stock market
Major: Accounting, audit and analysis    Code: 9340301
PhD attendant:     Nguyen Thi Mai Chi    ID: NCS35.34B2KT
Supervisor: Nguyen Van Cong
Institution: National Economics University

Theoretical contributions

The thesis found that there was correlation of financial risk in telecommunications companies listed on Vietnam's stock market with factors such as interest rate, efficiency of receivables and years of operation. Previous studies had yet to offer such correlation as well as prove the relationship between operational performance, interest rate and financial risk.

Research’s findings

(1)    Interest rate has a linear negative correlation with financial risk in telecommunications companies. This is because when the interest rate increases, telecommunications companies themselves use very little amount of external debts (both short-term and long-term debts) and increasingly utilize equity in business activities. This increases financial dependence and reduces financial risk in these enterprises. Researches by Defang & Murong (2005) and Vu Thi Hau (2013) did not provide sufficient evidence to conclude that interest rates have impacts on financial risk.
(2)    Efficiency of receivables has a negative correlation with financial risk in telecommunications companies. Research by Altman (1968), Ohlson (1980), Defang & Murong (2005), Vu Thi Hau (2013), Vu Thi Hau (2017), Gang & Dan (2012), Fu et al (2012), Bhunia & Mukhuti (2012) did not confirm this correlation.
(3)    The years of operation factor also has a negative correlation with financial risk in telecommunications companies. This is a factor that has not been reviewed in previous studies.

Recommendations 

(1)    In order for telecommunications companies to limit and prevent financial risk, it is necessary to apply the following measures: Completing the financial risk analysis process from identification to measurement, control, and solutions for financial risk; improving solvency by increasing liquidity of short-term assets; increasing profitability by controlling costs from production cost, services to non-production costs; improving efficiency of receivables by applying effective receivables management and increasing receivables turnover; establishing a financial structure that is suitable for both capital structure and asset structure. The thesis also proposed solutions to solve some specific types of financial risk in telecommunications companies such as solvency risk, profitability risk, credit risk, capital structure risk, interest rate risk.
(2)    For the State and governing bodies, it is essential to establish policies related to telecommunications development for remote areas, provide capital and interest support for telecommunications companies when they participate in projects as well as quickly establish Vietnam Telecommunications Association.
(3)    For Stock Exchanges, it is necessary to agree on criteria to classify companies for both Hanoi Stock Exchange and Ho Chi Minh Stock Exchange.